Tìm hiểu về bản di chúc nổi tiếng trong lịch sử của Đà Quốc Công Mạc Ngọc Liễn
Mạc Ngọc Liễn (1528-1594) nguyên có tên là Nguyễn Ngọc Liễn - là một quan chức triều Mạc, người xã Dị Nậu, huyện Thạch Thất, Hà Nội. Ông là con của Thái sư Tây quốc công Nguyễn Kính – công thần khai quốc nhà Mạc. Do cha con Nguyễn Kính có công lao lớn với nhà Mạc nên anh em Ngọc Liễn thảy ba người đều được ban họ vua. Mạc Ngọc Liễn đồng thời còn là phò mã nhà Mạc, tức hôn phu của công chúa Mạc Thị Ngọc Lâm.
Mạc Ngọc Liễn lớn lên trong thời kỳ Đại Việt chia cắt thành Nam- Bắc triều, phía Bắc là nhà Mạc, phía Nam từ Thanh Hóa trở vào là nhà Lê Trung hưng. Năm 1546, trong triều nhà Mạc ở Thăng Long xẩy ra biến loạn, Mạc Ngọc Liễn cùng cha là Nguyễn Kính đứng về phía Mạc Kính Điển tập trung dẹp loạn rất trường kỳ đến năm 1549 triều đình mới được yên, do có công lao to lớn phò tá vua Mạc Phúc Nguyên, cha con Nguyễn Ngọc Liễn trở thành công thần hàng đầu ngoài hoàng tộc nhà Mạc, được cải sang họ vua. Nguyễn Kính được đổi thành Mạc Ngọc Kính giữ chức Thái úy Tây Quốc công, Mạc Ngọc Liễn được phong làm Ngạn Quận công. Cả hai cha con Mạc Ngọc Kính và Mạc Ngọc Liễn có công lao phò tá cả 5 đời vua Nhà Mạc từ Mạc Thái Tổ- Đăng Dung đến đời vua cuối ở Thăng Long là Mạc Mậu Hợp. Khi Nhà Lê Trung hưng được họ Trịnh giúp sức chiếm lại Thăng Long, Mạc Ngọc Liễn và các con đã đưa Nhà Mạc về đất Cao Bằng lập căn cứ mới. Ông đã tìm gặp được con trai của Khiêm vương Mạc Kính Điển là Mạc Kính Cung để lập làm vua mới lấy niên hiệu là Càn Thống. Các con trai của Ngọc Liễn là Lập Quận công, Đông sơn hầu, Phù Cao hầu cùng cha tiếp tục chiến đấu trên các mặt trận trên bộ, trên sông, và trên biển để giữ cho Nhà Mạc xây dựng căn cứ ở Cao Bằng. Chính vì có sự tận trung đó mà Nhà Mạc đã tồn tại trên đất Cao Bằng được gần 100 năm nữa. Khi Nhà Lê trung hưng trở lại Thăng Long và Nhà Mạc đã thất thế, tháng 7 năm 1594, Mạc Ngọc Liễn bị ốm nặng, do nhận biết được thời thế nên ông đã để lại bản di chúc dặn vua Mạc Kính Cung. Nội dung này được ghi trong cuốn quốc sử Việt Nam là “ Đại Việt sử ký toàn thư” với nội dung như sau:
“ Nay họ Mạc khí vận đã hết, họ Lê lại phục hưng, đó là số trời. Dân ta vô tội, mà để cho mắc nạn binh đao, sao lại nỡ thế. Bọn ta nên tránh ở nước khác, chứa nuôi uy sức, chịu khuất đợi thì, xem khi nào mệnh trời trở lại mới có thể làm được. Rất không nên lấy sức chọi sức, hai con hổ đánh nhau tất có một con bị thương, không được việc gì. Nếu thấy quân họ đến thì ta nên tránh, chớ có đánh nhau, cốt giữ cẩn thận là hơn. Lại chớ nên mời người Minh vào trong nước ta, để đến nỗi dân ta phải chịu lầm than, đó cũng là tội không có gì nặng bằng”.
Nội dung của bản di chúc đã ghi trong sử sách đã được truyền lại cho đến hôm nay, các thế hệ thuộc dòng tộc Nhà Mạc cũng như dòng họ của Tây Kỳ vương Nguyễn Kính – Mạc Ngọc Liễn vẫn coi đây là một tài sản quý của đất nước và dòng họ. Năm 2010, kỷ niệm 1000 năm thành lập Thủ đô Thăng Long- Đông Đô- Hà Nội, Mạc tộc Việt Nam đã tập hợp lại được các chi phái thuộc dòng họ đã thay họ, đổi tên trở về lại gốc Mạc. Tôi cũng có may mắn được tham gia các hoạt động của họ Mạc với tư cách là cháu bên ngoại của cụ tổ Mạc Thái Tông. Ngày 01 tháng 9 năm 2013, Hội đồng Mạc tộc Việt Nam sau một thời gian dài chuẩn bị đã tổ chức một buổi đại lễ cầu siêu cho 500 người ở làng Hậu Tái thuộc tỉnh Thái Bình bị tàn sát thời chiến tranh Lê -Mạc. Đại lễ được tổ chức tại chùa Từ Xuyên, phường Hoàng Diệu thành phố Thái Bình. Khi trở về Hà Nội, ngồi cùng xe ô tô với tôi Giáo sư tiến sỹ khoa học Phan Đăng Nhật – Chủ tịch Hội đồng Mạc tộc Việt Nam khóa I, trong khi trao đổi với tôi, cụ có đề cập và gần như giao nhiệm vụ cho tôi, cụ nói “ Bản di chúc thật của cụ Đà Quốc công mà ghi trong Đại Việt sử ký toàn thư” chắc là chỉ có trích đoạn, anh là cháu chắt của các cụ thì nên cố gắng tìm hiểu xem có tài liệu đầy đủ thì công bố thêm cho hoàn chỉnh bản di chúc nhé! Nghe theo lời dặn của cụ Giáo sư Phan Đăng Nhật, tôi về quê tiếp tục tìm lại bản gia phả bằng chữ Hán đã bị thất lạc được lưu tại nhà cháu trưởng họ, các trang và chữ đã bị nhàu nát và úa mầu theo thời gian. Song rất đáng mừng là sau khi tập hợp lại và đóng lại theo từng trang thì những người có trình độ học vấn về Hán -Nôm giỏi vẫn đọc và dịch được. Một cơ may khác, tôi đã tìm gặp được anh Phạm Hải, một người con có họ gốc Mạc, anh công tác tại Trung tâm nghiêm cứu phả học Việt Nam, anh đã nhận lời và dịch lại cho toàn bộ cuốn phả. Đây là một tin vui cho dòng họ và cá nhân tôi, đã làm được một việc có ích cho dòng họ mà cụ Phan Đăng Nhật đã giao, nhân ngày xuân, năm mới Ất Mùi -2015, được phép của dòng họ, tôi xin công bố toàn bộ nội dung của lời di chúc của cụ Đà Quốc công – Mạc Ngọc Liễn đã ghi trong gia phả của dòng họ như sau:
"Nay vận khí nhà Mạc đã hết, mà họ Lê lại phục hưng, âu là số trời vậy! Dân ta vốn vô tội mà chỉ hãm trong vòng gươm giáo đâm chém, thì nỡ để dân khổ thế sao! Chúng ta nên lánh sang ở nước khác, nuôi dưỡng lực lượng hùng mạnh, cam chịu thất thế, mà đợi thời cơ, xem mệnh trời thế nào. Sau đó ta trở về, mới có thể hy vọng tính việc đại sự, nhất định không thể lấy sức đọ sức, hai con hổ tranh nhau, tất phải có một con chết, việc ấy thực là vô ích. Nếu bị quân địch hung bạo kéo đến, kế sách lúc ấy là chẳng gì bằng ta rút lui, điều cốt yếu chính là coi trọng việc phòng thủ cẩn thận và nhớ kỹ rằng, nhất định không được cầu viện quân Minh vào trong nước ta. Việc đó chẳng khác chi con cá bị ăn thịt, rồi đẩy dân ta lầm than chìm đắm trong bể khổ binh đao, thì còn tội nào lớn hơn thế!"
Đà Quốc công Mạc Ngọc Liễn mất ngày 2 tháng 7 âm lịch năm đó. Sau khi ông qua đời, các con ông là phò mã Đông Sơn hầu theo Mạc Kính Cung tiếp tục chống Tập đoàn phong kiến Lê-Trịnh. Mạc Kính Cung và các vua Mạc sau tiếp tục làm theo lời dặn của ông, tranh thủ sự ủng hộ của nhà Minh để cát cứ ở đất Cao Bằng nhưng tuyệt nhiên không mượn quân Minh sang đánh Nhà Lê- Trịnh. Dấu tích còn để lại vùng đất này gắn liền với công đức của Đà Quốc công lúc sinh thời đã làm được nhiều việc cho dân, cho nước, có rất nhiều điều đã được ghi lại trong sử sách. Một làng ở xã Hưng Đạo, huyện Hoà An, tỉnh Cao Bằng mang tên là làng Đà Quận, tức là đặt theo chức Đà quận công của Mạc Ngọc Liễn. Nhân dân tại đây có dựng chùa Đà Quận để tưởng nhớ ông.