Nơi lưu giữ 5 sắc phong của các vua triều đại nhà Nguyễn - Chùa Vũ Thạch
Chùa Vũ Thạch gọi theo tên làng Vũ Thạch, nơi có ngôi trường danh tiếng xưa và ông giáo làng Vũ Thạch là Nguyễn Huy Đức (1824 - 1898) nổi tiếng phẩm hạnh, đào tạo được nhiều môn sinh tài đức trên đất Thăng Long.
Kiến trúc chùa có mặt bằng hình chuôi vồ, tượng Phật đầy đủ theo hệ thống. Năm 1986, chùa cùng với cụm di tích của mình đã được Bộ Văn hóa và Thông tin xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật.
Chùa mở hội vào ngày 10/02 và 15/10 Âm lịch hàng năm. Trong ngày lễ hội bao giờ cũng có một đoàn khách của làng Xuân Đỗ (Hạ) đến cùng tham gia.
Tương truyền chùa Vũ Thạch khởi dựng từ thời nhà Lý, xưa vốn ở bên hồ Tả Vọng là một phần của Hồ Hoàn Kiếm sau này bị lấp. Văn bia trùng tu vào năm Tự Đức thứ 10 cho biết chùa có tên chữ Hán là Quang Minh Tự. Chùa được dân quen gọi theo tên làng Vũ Thạch, nơi có ngôi trường danh tiếng xưa của ông giáo Nguyễn Huy Đức (1824 – 1898) nổi tiếng phẩm hạnh, từng đào tạo được nhiều môn sinh tài đức trên đất Hà thành.
Văn bia trong chùa cho biết trải qua mấy trăm năm chùa đã được trùng tu nhiều lần, tuy nhiên không tả rõ hình dáng thay đổi thế nào. Cuối thế kỷ 19 cổng tam quan cũ của chùa bị phá khi thực dân Pháp mở rộng các tuyến phố Hàng Bài, Tràng Tiền cùng với việc lấp mọi ao hồ từ phố Hàng Khay trở xuống phía Hàng Chuối. Sang thế kỷ 20 làng Vũ Thạch đã hoàn toàn đô thị hóa; chỉ còn một lối vào chùa từ phố Bà Triệu và đất chùa bị lấn chiếm dần.
Chùa Vũ Thạch có một vị sư Tổ nổi tiếng từng được tấn phong Pháp chủ Bắc kỳ là Thích Thanh Tường (1858 – 1936), thế danh Đinh Xuân Lạc. Một vị nữa là Ni trưởng Thích Đàm Thuận (1930 – 2001), thế danh Tiết Thị Kim, người Nam Định. Ni sư hồi nhỏ tu ở chùa Cầu (Bắc Giang) thuộc sơn môn Vĩnh Nghiêm. Năm 1945 về Hà Nội tu tập tại các chùa Vân Hồ, Bà Đá. Năm 1957 trụ trì chùa Vũ Thạch. Năm 1995 chùa đã được Ni sư hưng công đại tu và định hình cho đến bây giờ.
Nơi đây hiện còn lưu giữ 5 sắc phong của các vua triều đại nhà Nguyễn. Đó là một sắc phong của Vua Gia Long năm 1802, hai sắc phong của Vua Tự Đức năm 1852 và 1879, một sắc phong của Vua Đồng Khánh năm 1886, một sắc phong của Vua Thành Thái năm 1889.