Trò chơi dân gian Tổ tôm là gì? Cách Chơi Tổ tôm miền Bắc đúng nhất
Tổ tôm là một trò chơi dân gian phổ biến trong cộng đồng người Việt từ xưa đến nay. Nếu bạn chưa từng theo dõi và tham gia chơi Tổ Tôm thì gặp khá nhiều khó khăn trong việc tiếp cận với các thuật ngữ khi chơi. Bài viết sẽ giới thiệu cho các bạn để chúng ta có thể hiểu và có thể chơi được nhé!
Bộ bài Tổ tôm
Vốn dĩ để thắng trò chơi này là không hề khó khi phải sử dụng đến nhiều sự tính toán và phán đoán sắc sảo.
Tổ tôm, hay theo Hán Việt tụ tam bài (聚三牌), là một trò chơi bài lá dân gian phổ biến của người Việt. Về tên gọi, có nguồn cho rằng "tổ tôm" là đọc trại âm "Tụ tam". "Tụ tam" theo từ nguyên là "góp ba thứ lại", tức ba hàng Văn, Vạn và Sách của bộ bài.
Trong các ngày lễ, Tết, tổ tôm thường được nam giới và người già chơi vì nó có một số luật khá khó, nhiều nước biến hoá, thanh niên và phụ nữ thời xưa ít chơi. Tổ tôm không phổ biến và bình dân bằng trò chơi Tam cúc.
Lịch sử và nguồn gốc
Lai lịch tổ tôm đến nay vẫn chưa rõ nhưng đến thế kỷ 19 tại Việt Nam thì lối chơi bài này rất phổ biến, nhất là trong giới thượng lưu vốn coi đây là một trò chơi thanh lịch dùng nhiều trí lực. Văn chương Việt Nam nhắc đến tổ tôm trong một số tác phẩm văn thơ.
Ca dao thì có câu:
"Làm trai biết đánh tổ tôm
Uống trà Mạn Hảo xem Nôm Thúy Kiều".
Riêng cỗ bài thì hình vẽ trên mỗi quân bài lại mang phong cách tranh mộc bản (木本 mokuhan) của Nhật Bản nên có người đặt câu hỏi phải chăng tổ tôm xuất phát từ Nhật. Có nguồn thì lại phỏng đoán cho tổ tôm xuất phát từ Trung Hoa. Tuy nhiên cho đến nay rõ một điều là cả Nhật và Trung Hoa đều không dùng bộ bài này.
Những nhân vật trên quân bài đều trang phục như người Nhật thời Edo, tức trước cuộc cải cách của Nhật hoàng Minh Trị 1868. Trong các quân bài thì 18 quân vẽ hình người đàn ông (có tám người chân quấn xà-cạp kyahan), bốn hình phụ nữ và bốn hình trẻ em. Ngoài ra có vài quân vẽ những vật khác nhưng đều là mô hình thông dụng trong ngành hội họa Nhật: cá chép, trái đào, vọng lâu, tàu thuyền.
Quân bài
Bài Tổ tôm có 120 lá bài gọi là "quân", chia thành 3 "hàng" (còn gọi là "chất" hay "hoa") Vạn (萬), Sách (索), Văn (文). Mỗi hàng có 9 bậc gọi là "số" từ nhất (一) đến cửu (九). Mỗi bậc có 4 quân, tổng cộng là 108 quân. Ngoài ra có số đặc biệt gọi là hàng yêu ("yêu đỏ" hay "yêu điều" vì có thêm dấu son đỏ trên mặt chữ) có tên gọi riêng là Ông lão (hay Ông cụ), Thang Thang và Chi Chi. Hàng yêu cũng 4 quân mỗi bậc tức là thêm 12 quân, cộng với 108 kể trên là 120 quân cả thảy.
Lá bài làm bằng bìa cứng, hẹp và dài, một mặt để trơn, mặt kia có hình và chữ. Bề ngang lá bài khoảng chiều ngang hai ngón tay. Bề dọc dài hơn ngón tay giữa.
Trên mỗi lá bài có hình vẽ ở khoảng giữa. Tên quân viết ở hai đầu ngược và xuôi bằng chữ Nho. Tên hàng Vạn, Văn, Sách nằm nhích bên trái. Tên số từ Nhất đến Cửu nằm bên phải. Cách nhận diện ba hàng Vạn, Văn, và Sách có thể tóm tắt là:
"Vạn vuông, Văn chéo, Sách loằng ngoằng".
Các quân bát vạn, cửu vạn, bát sách, và cửu sách cũng có dấu son đỏ giống như hàng yêu. Vì có hình minh họa nên ai dù không biết chữ Nho cũng có thể nhận diện bằng hình.
Cỗ bài tổ tôm ngoài việc dùng đánh tổ tôm còn dùng đánh tài bàn và đánh chắn tuy phải loại bỏ một số quân cho phù hợp với trò chơi.
Cách chơi
Muốn chơi tổ tôm phải có năm người (gọi là chân) ngồi trên chiếu để dễ quây thành vòng tròn. Ngồi bàn thì khó hơn vì bàn chỉ có bốn cạnh.
Người cầm cái sẽ chia bài đều thành sáu phần, mỗi phần 20 quân; năm phần thì cho năm người, còn lại một phần thì xếp ở giữa chiếu, gọi là "bài nọc". Mỗi người cầm bài lên xòe dạng nan quạt xếp để dễ xem rồi cố xếp thành "phu", tức từng bộ theo thể lệ tổ tôm.
Phu
Một phu phải có ít nhất ba quân. Chưa tròn một phu thì gọi là "lưng", phải chờ quân.
• Phu dọc: ba quân cùng một hàng và theo tứ tự số; ví dụ như nhất vạn + nhị vạn + tam vạn
• Phu bí: là phu cùng một số mà khác hàng; ví dụ như nhị vạn + nhị sách + nhị văn
• Phu "cộng thành 10" với hàng văn lớn hơn cả; ví dụ như nhất vạn + nhất sách + cửu văn; nhị vạn + nhị sách + bát văn
• Thiên khai: bốn quân giống nhau
• Khàn: ba quân giống nhau
Nhà cái đi trước, hạ bài xuống chiếu rồi bốc một quân từ sấp bài nọc. Khi bài nọc hết thì xong một ván. Có khi ván đó không có ai "ù".
Ù là khi người đánh hạ cả 21 quân xuống xếp thành các phu, không lẻ quân nào. Quân lẻ thì gọi là "rác" nhưng luật cấm rác không được có quân yêu.
Ù
Ù có nhiều loại.
Ù thập điềm: toàn quân đỏ
Ù bạch định: toàn quân trắng
Ù kính cụ: toàn quân trắng và quân Ông cụ
Ù kính tứ cố: toàn quân trắng và bốn quân Ông cụ
Xếp bài
Khi chơi tổ tôm bài hạ xuống chiếu có quy tắc để dễ kiểm điểm khi tính điểm. Phu bí phải xếp trên cùng. Phu dọc phải xếp dưới và đặt dọc. Có thiên khai thì phải trình làng. Khàn thì đặt úp, đến khi ù thì lật lên.
Tính điểm
Nhiều ván tổ tôm gom lại là một hội. Mỗi ván tính điểm rồi cộng lại.